Sóng xung kích là gì? Các công bố khoa học về Sóng xung kích

Sóng xung kích, còn được gọi là sóng tác chiến xung kích, là một chiến thuật tấn công hay phản công trong quân sự. Sóng xung kích là một cuộc tấn công nhanh chó...

Sóng xung kích, còn được gọi là sóng tác chiến xung kích, là một chiến thuật tấn công hay phản công trong quân sự. Sóng xung kích là một cuộc tấn công nhanh chóng và mạnh mẽ vào mục tiêu của đối phương trong một khoảng thời gian ngắn. Nó thường được thực hiện bằng cách tung ra một lực lượng quân sự lớn và tấn công cùng nhau từ nhiều hướng khác nhau, với mục tiêu là gây sự chùng bước và làm đảo lộn kế hoạch và tổ chức của đối phương. Sóng xung kích có thể được sử dụng để tấn công các mục tiêu quân sự, hạ tầng quan trọng, hoặc để tạo ra áp lực và sự phá hoại trong tình hình chiến tranh.
Sóng xung kích là một phương pháp tấn công được sử dụng trong quân sự để tiến hành một cuộc tấn công nhanh chóng và mạnh mẽ vào mục tiêu của đối phương. Phương pháp này thông thường được áp dụng trong các cuộc tấn công hàng nghìn và hàng ngàn binh sĩ, với mục tiêu là làm cho đối phương bị phá vỡ và đánh bại trong thời gian ngắn nhất có thể.

Sóng xung kích thường bao gồm sự đồng bộ giữa các loại binh lính (bộ binh, mặt trận, xe tăng, pháo binh, máy bay,...) và việc tấn công từ nhiều hướng khác nhau. Kế hoạch tấn công thường được xây dựng trước, đảm bảo rằng mọi đợt tấn công xảy ra cùng lúc hoặc trong một khoảng thời gian rất ngắn, gây sự lúng túng và suy yếu cho đối phương.

Sóng xung kích thường được sử dụng để tấn công các mục tiêu quân sự quan trọng như căn cứ quân sự, trung tâm điều hành, nhà máy quân sự hoặc cầu cống quan trọng. Nó cũng có thể được sử dụng để tạo ra áp lực và phá hoại trong tình hình chiến tranh, làm cho đối thủ mất lòng tin và tinh thần.

Trong sóng xung kích, binh sĩ thường tấn công với tốc độ cao và sử dụng sức mạnh lớn, nhằm đánh bại đối thủ càng nhanh càng tốt. Kỹ thuật và công nghệ quân sự hiện đại, chẳng hạn như chuẩn bị tốt hơn, sự hỗ trợ của các phương tiện không người lái và các công cụ tiến bộ khác, đã giúp nâng cao hiệu quả của sóng xung kích.

Tuy nhiên, sóng xung kích không phải lúc nào cũng thực hiện thành công. Đối thủ có thể phản ứng và hồi đáp bằng cách triển khai các biện pháp phòng thủ, sử dụng các hệ thống phòng không hoặc tạo ra sự phản đòn. Sóng xung kích cũng có thể gặp khó khăn khi tiến vào khu vực địa hình phức tạp hoặc chưa từng được khảo sát kỹ lưỡng. Do đó, chỉ có một kế hoạch chiến lược và tài năng chỉ huy tốt mới đảm bảo thành công trong việc triển khai sóng xung kích.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sóng xung kích":

Chương trình tính dòng khí trong ống có tiết diện thay đổi
Lý thuyết dòng khí bao gồm các phương trình đại số với hàm mũ phức tạp, rất khó khăn để tính toán hoặc giải bài toán ngược lại. Để sở hữu các phần mềm tính toán dòng khí cần phải có bản quyền, do đó cần phải xây dựng một chương trình tính toán các bài toán dòng khí đơn giản trong ống có tiết diện thay đổi bao gồm các dòng dưới âm và trên âm, nhằm phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu. Với việc sử dụng ngôn ngữ lập trình Java, chạy trong môi trường hỗ trợ lập trình Eclipse, một chương trình nhằm giải các bài toán dòng khí tiêu biểu trong ống có tiết diện thay đổi đã được thực hiện với việc kiểm soát chặt chẽ các điều kiện trong dòng chảy để chọn lời giải phù hợp cho các trường hợp của dòng khí. Chương trình có thể giải các bài toán với các loại khí khác nhau, kết quả của các bài toán do chương trình cung cấp được so sánh với kết quả các bài toán mẫu, cho thấy chương trình chạy ổn định với kết quả khá chính xác.
#dòng khí #dưới âm. #trên âm #EES #chương trình tính #sóng xung kích #shock wave #chocked
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ KẾT HỢP CỦA SÓNG XUNG KÍCH TRONG GIẢM ĐAU VÙNG CỘT SỐNG THẮT LƯNG TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị kết hợp sóng xung kích trong giảm đau cột sống thắt lưng tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả can thiệp so sánh trước sau điều trị có đối chứng trên 90 bệnh nhân bị đau vùng cột sống thắt lưng điều trị tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Kết quả: sau 15 ngày ở nhóm can thiệp tỷ lệ không đau chiếm 38,7%, còn đau nhẹ cao nhất 62,2%, không có bệnh nhân đau mức độ nặng và vừa. Độ giãn cột sống thắt lưng ở nhóm can thiệp mức độ tốt và khá chiếm 97,8%. Tầm vận động gập mức độ tốt chiếm 40%, duỗi mức độ tốt 48,9%, nghiêng trái phải mức độ tốt chiếm 42,2%, xoay trái phải mức độ tốt chiếm 46,7%. Kết luận: sóng xung kích mang lại hiệu quả giảm đau tốt cho bệnh nhân đau cột sống thắt lưng.
#Đau cột sống thắt lưng #sóng xung kích #vật lý trị liệu #tầm vận động #độ giãn cột sống
Đánh giá kết quả của phương pháp sóng xung kích trong điều trị bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính trong 6 tháng
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phương pháp sóng xung kích trong điều trị bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính trong 6 tháng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chiếu và so sánh, theo dõi trong 6 tháng trên 65 bệnh nhân có bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng theo tiêu chuẩn ESC 2013 điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch- Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 3/2015 đến tháng 3/2021. Theo dõi đau ngực, khả năng gắng sức, tình trạng khó thở, siêu âm tim, xạ hình tưới máu cơ tim sau 6 tháng điều trị. Kết quả: Các triệu chứng đau ngực cải thiện rõ rệt (số cơn đau ngực 6,26 ± 2,59 xuống 0,58 ± 0,56 cơn; lượng nitrat dùng/tuần từ 6,34 ± 2,62 xuống 0,60 ± 0,55 lần/tuần). Test đi bộ 6 phút đều cải thiện (280,8 ± 71,1m so với 388,6 ± 44,4m). Tỷ lệ phân loại mức độ đau ngực cải thiện 6 tháng lần lượt: CCS 3 (59,46% xuống 0%), CCS 4 (16,92% xuống 0%). Ở nhóm có suy tim theo phân độ NYHA cải thiện (NYHA III từ 13,85% xuống 1,54%, NYHA IV không còn trường hợp nào. NT-proBNP giảm (942,75 ± 1618,37 xuống với 410,45 ± 451,54pg/ml). Phân suất tống máu EF Simpsons sau điều trị (48,48 ± 10,57%) cao hơn trước điều trị (43,89 ± 12,27%). WMSI sau điều trị (1,28 ± 0,15) cải thiện hơn so với trước điều trị (1,54 ± 0,18). GLS cải thiện từ -10,28 ± 2,82 lên -12,48 ± 2,67. Sau điều trị các điểm trung bình của SSS (17,45 ± 8,61 so với 12,18 ± 7,89); SRS (11,09 ± 7,74 so với 9,46 ± 7,23), SDS (4,37 ± 2,31 so với 2,57 ± 1,56) đều cải thiện hơn so với trước điều trị với p<0,05. Mức độ khuyết xạ nặng và diện khuyết xạ rộng giảm có ý nghĩa sau điều trị lần lượt là 46,2% xuống 12,3% và 60% xuống 26,2% với p<0,001). Kết luận: Điều trị thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng bằng sóng xung kích có hiệu quả rõ rệt. 
#Bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính #liệu pháp sóng xung kích tim
Giải pháp số cho bài toán phát âm thanh của bộ rung piezoelectric hình trụ được kích thích bởi các xung điện Dịch bởi AI
Journal of Mathematical Sciences - - 1993
Một phương pháp số được đề xuất để giải quyết bài toán sóng không ổn định cho một hình trụ gốm piezoelectric được ngâm trong chất lỏng và được kích thích bởi một tín hiệu điện. Phương pháp sử dụng sơ đồ sai phân hữu hạn được xây dựng bằng phương pháp nội suy tích phân. Một thí nghiệm số được thực hiện để phân tích các quá trình tạm thời trong một hình trụ có thành mỏng được kích thích bởi một xung điện "bước".
#kỹ thuật piezoelectric #sóng không ổn định #mô hình số #xung điện #hình trụ gốm
Research for clinical and subclinical characteristics in patients of ischemic heart disease with indications for cardiac shock wave therapy
Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có chỉ định điều trị bằng sóng xung kích. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 50 bệnh nhân có bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có chỉ định điều trị bằng sóng xung kích được điều trị nội trú tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2020. Tất cả bệnh nhân được khám lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng, tìm hiểu các yếu tố nguy cơ. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 71,32 ± 10,5 năm; nam (78%). Các yếu tố nguy cơ chính tuổi cao (tuổi ≥ 65) 84%, rối loạn lipid máu 96%, tăng huyết áp 100%, tỷ lệ hút thuốc lá 70%, và đái tháo đường 38%. Tỷ lệ phân độ đau ngực lần lượt CCS 2 (28%); CCS 3 (66%); CCS 4 (6%). Tỷ lệ suy tim (64%), trong đó NYHA II chiếm tỷ lệ cao nhất (51,9%). Số lượng bệnh nhân không can thiêp là (30%), có PCI (56%), có CABG (12%). Phân số tống máu trung bình EF 55,7 ± 16,2% (EF theo Simpson’s 43,3 ± 12%), điểm vận động thành (WMSI) 1,49 ± 0,22. Sức căng chiều dọc trung bình (GLS) -9,8 ± 2,68. Tỷ lệ giảm vận động thành thất chiếm 98%. Tổn thương nhiều nhánh ĐMV (96%). Mức độ hẹp nặng nhiều động mạch vành (58%). Tỷ lệ khuyết xạ kết hợp (100%), khuyết xạ mức độ nặng (52%) và khuyết xạ diện rộng (58%). Kết luận: Bệnh nhân thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có chỉ định điều trị bằng sóng xung kích thường lớn tuổi, có nhiều yếu tố nguy cơ, tổn thương động mạch vành nhiều và phức tạp, mức độ khuyết xạ nặng và rộng.
#Bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính #liệu pháp sóng xung kích tim
Đánh giá cải thiện mức độ đau và tầm vận động khớp vai ở bệnh nhân viêm quanh khớp vai được điều trị bằng sóng xung kích kết hợp điện châm và xoa bóp bấm huyệt
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 37 Số 4 - Trang 24-30 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá sự cải thiện mức độ đau và tầm vận động khớp vai ở bệnh nhân viêm quanh khớp vai thể đơn thuần dưới ảnh hưởng của sóng xung kích kết hợp điện châm và xoa bóp bấm huyệt. Đối tượng: 60 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán viêm quanh khớp vai thể đơn thuần theo y học hiện đại và thuộc thể kiên thống của y học cổ truyền, tự nguyện tham gia điều trị tại Bệnh viện Châm cứu Trung ương, chia làm hai nhóm: Nhóm nghiên cứu 30 bệnh nhân được điều trị bằng điện châm 25 phút/lần x 1 lần/ngày x 20 ngày kết hợp sóng xung kích 2 lần/tuần x 3 tuần và xoa bóp bấm huyệt 30 phút/lần x 1 lần/ngày x 20 ngày. Nhóm đối chứng 30 bệnh nhân chỉ điều trị bằng điện châm kết hợp sóng xung kích. Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng mở, so sánh trước sau điều trị và so sánh với nhóm đối chứng. Kết quả và kết luận: Liệu pháp sóng xung kích kết hợp điện châm và xoa bóp bấm huyệt có tác dụng cải thiện mức độ đau và tầm vận động khớp vai ở bệnh nhân viêm quanh khớp vai thể đơn thuần.
#Sóng xung kích #điện châm #viêm quanh khớp vai.
Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính bằng sóng xung kích
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính bằng sóng xung kích. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chiếu và so sánh, theo dõi trong 6 tháng trên 50 bệnh nhân có bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng theo tiêu chuẩn ESC 2013 điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2020. Được điều trị bằng sóng xung kích với phác đồ: Phát xung vào vùng cần điều trị với liều 100 xung/điểm với mức năng lượng 0,09mJ/mm2, từ 3 - 6 điểm/mỗi lần bắn. Quy trình điều trị được nhắc lại 3 lần/tuần vào tuần đầu tiên của mỗi tháng tai tuần thứ 1, tuần thứ 5 và tuần thứ 9. Theo dõi đau ngực, khả năng gắng sức, tình trạng khó thở, siêu âm tim, xạ hình tưới máu cơ tim sau 6 tháng điều trị. Kết quả: Các triệu chứng đau ngực cải thiện rõ rệt (số lần cơn đau ngực 5,87 ± 2,7 xuống 0,28 ± 0,45 lần, số lượng nitrat sử dụng/tuần từ 6,3 ± 3,5 xuống 0,3 ± 0,5 viên/tuần). Test đi bộ 6 phút đều cải thiện (278,1 ± 71m so với 390,5 ± 42,3m), thang điểm Borg từ 4,64 ± 1,44 xuống 1,82 ± 1,0. Tỷ lệ phân loại mức độ đau ngực giảm đáng kể có ý nghĩa CCS 3 (66% xuống 4%), CCS 4 (6% xuống 0%). Ở nhóm có suy tim độ NYHA cải thiện có ý nghĩa (NYHA III từ 40,7% xuống 11,1%, NYHA II từ 51,9% xuống 33,3%). Pro-BNP giảm (994,99 ± 1708,9 xuống với 429,0 ± 453,9pg/ml). Phân suất tống máu EF Simpson’s sau điều trị (50,5 ± 10,33%) cao hơn trước điều trị (43,3 ± 11,99%). WMSI sau điều trị (1,24 ± 0,12) giảm so với trước điều trị (1,49 ± 0,22). GLS cải thiện từ -9,79 ± 2,68 lên -12,7 ± 2,42. Số vùng giảm vận động từ 98% xuống 80% với p<0,05. Điểm trung bình của SSS (15,78 ± 9,25 so với 11,54 ± 7,7), SRS (11,0 ± 8,45 so với 8,39 ± 6,77), SDS (4,78 ± 2,83 so với 3,02 ± 1,83), cải thiện hơn nhiều so với trước điều trị với p<0,05. Mức độ khuyết xạ nặng và diện khuyết xạ rộng giảm có ý nghĩa sau điều trị lần lượt là 52% xuống 12% và 58% xuống 28% với p<0,001. Không thấy có tác dụng tăng men tim và các rối loạn nhịp phức tạp trong thời gian nghiên cứu. Kết luận: Điều trị thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng bằng sóng xung kích có hiệu quả rõ rệt và độ an toàn cao. 
#Bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính #liệu pháp sóng xung kích tim
Sóng xung kích trong hỗn hợp dị thể chất lỏng với chất khí hoặc hơi
Vietnam Journal of Mechanics - Tập 9 Số 4 - Trang 3-8 - 1987
None
Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đặc điểm kỹ thuật của phương pháp sóng xung kích ở bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đặc điểm kỹ thuật của phương pháp sóng xung kích ở bệnh nhân thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 65 bệnh nhân có bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có chỉ định điều trị bằng sóng xung kích được điều trị nội trú tại Bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng 3/2015 đến tháng 3/2021. Tất cả bệnh nhân được khám lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng và tìm hiểu các yếu tố nguy cơ. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 72,2 ± 10,1, nam (78,5%). Tỷ lệ phân độ đau ngực CCS 2 (24,6%), CCS 3 (58,5%), CCS 4 (16,9%). Không có biểu hiện thiếu máu cơ tim trên điện tâm đồ (30,3%), nhồi máu cơ tim cũ chiếm 32,2%. Phân số tống máu thất trái (EF) theo Simpsons 44,89 ± 12,27%, chỉ số điểm vận động thành (WMSI) 1,54 ± 0,18. Sức căng chiều dọc trung bình (GLS) -10,28 ± 2,82. Bệnh nhân không tái thông động mạch vành (27,7%), có tiền sử PCI (61,5%), CABG (7,7%), PCI và CABG (3,1%). Tổn thương nhiều nhánh động mạch vành (55,4%). Tỷ lệ khuyết xạ mức độ nặng (46,2%), khuyết xạ diện rộng (60%). Tổng lượng xung phát trung bình: 6269,2 ± 816,6 xung. Số vùng và thời gian phát xung trung bình lần lượt là 7,72 ± 1,48 vùng và 128,6 ± 45,64 phút. Tỷ lệ các vùng được phát xung cao nhất là vùng mỏm (93,8%), thấp nhất là thành bên 30,2%. Không thấy có tác dụng tăng men tim và các rối loạn nhịp phức tạp trong thời gian nghiên cứu. Kết luận: Bệnh nhân thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính ở nhóm điều trị sóng xung kích thường lớn tuổi, tổn thương động mạch vành nhiều và phức tạp, mức độ khuyết xạ nặng và rộng
#Bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính #sóng xung kích
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VIÊM CÂN GAN BÀN CHÂN BẰNG SÓNG XUNG KÍCH TẠI KHOA PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 78 - Trang 128-133 - 2024
Đặt vấn đề: Viêm cân gan bàn chân gây ra những cơn đau nhói phức tạp ở vùng gót chân và phía dưới bàn chân. Việc điều trị cần được thực hiện đúng cách, kịp thời để ngăn ngừa bệnh chuyển sang mạn tính, tái phát nhiều lần, ảnh hưởng xấu tới dáng đi và chất lượng cuộc sống. Sóng xung kích là phương pháp được chứng minh là mang lại hiệu quả điều trị cao các trường hợp viêm cân gan bàn chân. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị viêm cân gan bàn chân bằng sóng xung kích tại Khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả can thiệp so sánh trước-sau điều trị về đặc điểm 2 nhóm bệnh nhân. Kết quả: Lứa tuổi bị viêm cân gan bàn chân nhiều nhất là lứa tuổi trên 50 tuổi chiếm 54,4%; Bệnh nhân nữ chiếm 69,6%; Bệnh nhân làm những nghề đi lại vận động nhiều bị mắc bệnh viêm cân gan bàn chân cao chiếm 78,3%. Béo phì, thừa cân bị viêm cân gan bàn chân chiếm tỷ lệ 78,3%; Sau điều trị nhóm can thiệp có 60,9% bệnh nhân không đau, còn ở nhóm chứng không đau 30,4%; Nhóm can thiệp có sự cải thiện rõ rệt về mức độ nhạy cảm gót chân theo chỉ số Heel Tenderness Index – HTI và về độ dày gan bàn chân trên siêu âm. Kết luận: Điều trị viêm cân gan bàn chân bằng sóng xung kích mang lại hiệu quả điều trị tốt.
#Viên cân gan bàn chân #sóng xung kích #mức độ đau #độ nhạy cảm gót chân #độ dày gan bàn chân
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2